2012. 8. 9.

나의 한국 적응기(by Thao)


20072월 한국에 첫 발을 내딛자 꽤 넓고 멋진 인천공항에 놀랐다. 그만큼 현대적인 공항을 본 적이 없었다. 다음으로 온 느낌은 한국 겨울의 매서운 추위였다. 한국에 오기 전에 한국 겨울이 정말 춥고 온도가 영하로 떨어져 눈도 내릴 수 있다고 들은 적이 있었다. 드디어 그것을 직접 실감했다.   

Tháng 2 năm 2007, lần đầu tiên đặt chân sang Hàn Quốc, tôi đã bị choáng ngợp bởi vẻ đẹp và sự rộng lớn của sân bay Incheon. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một sân bay hiện đại như thế. Cảm giác tiếp theo là cái lạnh giá buốt của tiết trời mùa đông Hàn Quốc. Trước khi sang đây, tôi đã từng nghe nói mùa đông Hàn Quốc rất lạnh, có thể xuống tới âm độ với những bông tuyết rơi. Cuối cùng, tôi đã được trực tiếp kiểm nghiệm điều đó.

베트남에서 같이 일했던 나의 한국 친구와 한 목사님이 나를 마중 나왔다. 그때 아직 기숙사에 들어가지 못해 그 친구 집에 한 주 동안 머물러야 했다. 원래 베트남에서 2년간 한국 사람을 접근하고 같이 일했었기 때문에 현지와의 생활에 있어 어려움이 없었다. 새로운 삶에 대한 궁금증은 고국의 향수(鄕愁)를 달랬다. 그렇지만 기숙사에 입사한 후 낯선 장소와 사람들로부터 문득 외로움이 느껴졌다. 고향과 친구들을 보고 싶어 일 주내내 울었다. 하지만 핸드폰을 가진 후 한국에 유학 와 있는 베트남 친구들에게 연락해 외로움과 슬픔이 어느 정도 덜했다. 기숙사에 먼저 온 베트남 친구들을 찾아가 적응경험을 물어보기도 했다

Tôi được chị bạn người Hàn, từng làm việc cùng tôi ở Việt Nam và một chú mục sư ra đón. Lúc ấy, tôi chưa được vào ký túc xá nên phải ở nhà chị ấy trong gần một tuần. Vốn dĩ tôi đã từng tiếp xúc và làm việc với người Hàn Quốc trong gần 2 năm ở Việt Nam nên tôi không gặp mấy khó khăn trong việc sinh hoạt với người bản địa. Sự tò mò về cuộc sống mới đã khiến tôi vơi đi nỗi nhớ nhà. Nhưng sau khi chuyển vào ký túc xá, sự lạ lẫm về nơi ở và con người làm cho tôi thấy cô đơn. Tôi đã khóc liền trong 1 tuần đầu vì nhớ nhà, nhớ bạn. Nhưng sau khi có điện thoại, tôi đã liên lạc với những người bạn ở đây và thấy đỡ buồn và cô đơn hơn. Tôi còn tìm gặp các bạn người Việt ở ký túc, những người đã đến trước tôi và hỏi họ kinh nghiệm. 


맨 처음에 친구가 별로 없어 밥을 혼자 먹을 때가 많았다. 이러다가 한국에서는 혼자 밥 먹기가 뭔가 불쌍한 거라고 알게 되었다. 그래서 기분이 안 좋을 때 패스트푸드(fastfood)를 사 와서 먹고 캠퍼스에 돌아다니곤 했다. 당시 경희대학교가 너무나 아름답고 나에게 스트레스를 푸는 데였다. 그렇게 멋진 학교를 본 것은 처음이었기 때문이다. 이므로 슬프거나 고향이 그리울 때 경희대에서 공부할 수 있다는 자부심으로 스스로 위로하고 격려했다.
Hồi mới sang, tôi chưa có mấy bạn bè và thường phải đi ăn một mình. Rồi tôi chợt nhận ra một điều rằng, ở bên này, việc ăn một mình dường như là điều gì đó rất đáng thương hại. Do đó, mỗi khi tâm trạng không tốt, tôi thường mua đồ ăn sẵn về ăn và lang thang trong campus. Trường KyungHee thật đẹp và luôn là nơi giải tỏa những căng thẳng cho tôi. Tôi chưa bao giờ thấy một khuôn viên trường đại học nào đẹp như thế. Bởi vậy, mỗi khi buồn hay nhớ nhà, tôi thường lấy niềm tự hào được học ở trường này để tự an ủi mình và tìm nghị lực vươn lên. 


한국에서 수업시간에 발표나 토론에 적극적으로 참여하는 공부 방식은 베트남에서의 소극적인 공부 방식과 무지 다르다. 게다가 유일한 외국인학생으로서 처음에 공부하는 데 스트레스를 받고 자신이 없었다. 그러나 교수님과 친구들에게 격려와 도움을 받은 후 자신감을 가지며 재미있게 공부하게 되었다. 이러다가 친구의 소개로 한국 회사에서 아르바이트도 하고 여러 가지 자원봉사활동에도 참여했다. 경희대에 있는 베트남유학생회 활동도 했다. 바쁜 생활을 하면서 피곤함을 느낄 때도 있지만 이러한 삶에서 성장하고 성격이 강해졌다. 또 일하는 데 있어 최선을 다하고 책임 있게 하는 한국 사람의 성격을 알게 되었다. 여기 삶은 많은 사람들이 생각하는 것처럼 아름답지 않지만 내가 갖고 있는 것에 만족하다. 특히 타국에서 친절하고 마음이 따뜻하고 기꺼이 도움을 줄 수 있는 교수님과 친구들이 있다는 것은 나의 가장 고마운 것이다
Cách học chủ động, tham gia phát biểu, thảo luận trên lớp khác xa với cách học thụ động ở Việt Nam. Hơn nữa, một mình là người nước ngoài ở trong lớp, ban đầu, tôi cũng đã khá bỡ ngỡ và thiếu tự tin trong học tập. Nhưng sau đó, được bạn bè, thầy cô động viên, giúp đỡ, tôi hoàn toàn tự tin và thích thú với những môn chuyên ngành. Dần dần, tôi đi làm thêm ở một công ty Hàn Quốc và đồng thời tham gia nhiều hoạt động tình nguyện dưới sự giới thiệu của các bạn cùng lớp. Tôi còn tham gia hoạt động hội sinh viên Việt Nam tại Trường KyungHee. Cuộc sống bận rộn đôi lúc cũng vất vả, nhưng tôi trưởng thành, cứng rắn hơn từ cuộc sống đó. Tôi cũng hiểu thêm về lối làm việc hết mình và trách nhiệm của người Hàn Quốc. Tuy cuộc sống nơi đây không đẹp như nhiều người vẫn tưởng, nhưng tôi rất hài lòng với những gì mình có. Đặc biệt, những người bạn, người thầy thân thiện, tốt bụng, luôn sẵn lòng giúp đỡ tôi chính là điều mà tôi thấy biết ơn nhất ở nơi xứ lạ này. 



댓글 없음:

댓글 쓰기